29 thg 10, 2011

Kính gửi: ÔNG NGUYỄN THÔNG!

Kính gửi: ÔNG NGUYỄN THÔNG!

Đọc Blog của ông Nguyễn Thông tôi càng thấm Người xưa viết: Ngũ thập nhi tri Thiên mệnh. May mắn cho tôi có lá số Tử Vi của Ngài nên thấy Ngài trong tưởng tượng, ở ngoài đời và trên Blog Nguyễn Thông, nay xin ngỏ cùng Ngài:

1/ Tuổi trẻ dù thiếu cơm nhưng chính danh nên việc gì cũng thuận.

2/ Hai năm tuổi nhẩy vào yêu – đương hay mà gặp đầy cản trở. Hết lòng vì thê thiếp, tưởng thê thiếp hiểu mình quá, mà hoá chẳng hiểu chi? Thân cư thê thiếp xá gì? Nên ngài chấp nhận chẳng kêu gì cùng ai.

3/ Năm T. Mão Ngài đang tuổi 57: Năm đối kháng về: tiền, bên Ngoại, với kẻ đương quyền, đấy là bọn quan như ngài viết. Tôi thấy:

- Tháng (A. lịch) 10 coi chừng sự kiện cáo hoặc vu cáo, bôi lem.

- Tháng 11 tốn vì: Tử, Phụ, Nô không kể xiết, kẻ cả lợi dụng vào việc chính trị.

- Tháng 12 không tỉnh sẽ lâm vào thế trận của đối phương, ví như cờ thế vậy.

Em khuyên Ngài: Tạm xa bọn làm chính trị như tuyên ngôn tại Blog của Ngài, Em chúc Ngài mọi sự an lành.

Hải Phòng6 g 30 ngày M. Tuất/ Kỷ Hợi/ T. Mão.

25 thg 10, 2011

PHƯỢNG HOÀNG VÀ VIỆC ĐẶT TÊN CHO CON CỦA NC KHANH

Gia đình nhà bà nội của Phượng Thư, Công Khiêm, Khánh An

Chị Phượng Thư là tay chơi













































Bà nội & anh Công Khiêm














































Bà nội và chị Thư của Vừng



Ông nội ở Angkor Wat & Angko Thom (2012)






Gia đình bác Khuê Hằng, anh Khiêm còi nhất, đẹp giai nhất.













Phượng Thư & ông Nội tại Bảo tàng dân tộc Thái Nguyên 2011



Công Khiêm & Bố Công Khuê (2012)















Công Khiêm đang vào thế võ hay cắn càn( 2013)



Bố Mẹ Vừng năm 2011.




































Chào tất cả cháu buồn ngủ lắm ( năm 2011)















Gia đình Vừng(2013)






Bố Vừng là phóng viên báo Tiền Phong (2013)



Mẹ vừng.



Vừng thể hiện








Vừng năm 2012


.

Vừng đi học tháng 7/ Quý Tỵ(2013)
Hình ảnh: Hôm nay, 12/8/2013, cháu gái bé bỏng của mọi người đi học lớp mầm non 2 tuội tại Hoa Lư, Ninh Bình. Theo thông tin từ bà ngoại thì lớp có 10 bạn, bạn nào cũng khóc choe chóe, không khác gì vỡ chợ. Còn Vừng thì tha thẩn chơi. Chẳng o e gì tới bà đang đứng tần ngần ở ngoài xem cháu có khóc không!


PHƯỢNG HOÀNG VÀ VIỆC ĐẶT TÊN CHO CON CỦA NC KHANH & PHAN THỊ HUYỀN

Phượng hoàng tiếng Trung Phồn thể: 鳳凰 Giản thể: 凤凰
Tên Việt Quốc ngữ: Phượng/Phụng Hoàng

Bài này chỉ viết về phượng hoàng theo cách hiểu của người Á Đông, về con chim trong cách hiểu của người phương Tây, cũng được dịch thành phượng hoàng, xem bài Phượng hoàng (Ai Cập). Và xem các mục từ khác có tên tương tự ở Phượng hoàng (định hướng).
Phượng hoàng (tiếng Trung giản thể: 凤凰, phồn thể: 鳳凰; tiếng Nhật: 鳳凰 hō-ō; tiếng Triều Tiên: 봉황bonghwang) nguyên thủy là các con chim trong thần thoại của người dân khu vực Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa, ngự trị trên tất cả các loài chim khác. Trước đây, con trống được gọi là Phượngcòn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn và Phượng cùng Hoàng đã được trộn lẫn vào nhau thành một thực thể giống cái, gọi là phượng hoàng, để cho nó có thể ghép cặp với long (rồng), là con vật mang ý nghĩa của giống đực. Người Hán thường sử dụng thành ngữ "Con cháu rồng" như là dấu hiệu của việc nhận dạng theo chủng tộc. Phượng hoàng còn được gọi là "côn kê"? (鶤雞 kwangai tiếng Quảng Đông kūnjī quan thoại) do đôi khi nó được dùng thay cho con gà trong Can Chi. Tại thế giới phương Tây, chẳng hạn như người nói tiếng Anh, gọi nó là Chinese phoenix (phoenix cũng được dịch sang tiếng Việt là "phượng hoàng", mặc dù nó là con vật thần thoại không có khái niệm tương đương trong văn hóa của người Việt) hay ho-oh bird (từ tiếng Nhật hō-ō).

Miêu tả phổ biến là chim phượng hoàng đang tấn công con rắn bằng móng vuốt của nó với đôi cánh dang rộng. Người ta tả chim phượng hoàng với các đặc điểm sau: đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá, với 5 màu và cao 6 thước. Nó tượng trung cho 6 thiên thể mà ngày nay có thể hiểu nôm na là: đầu là trời, mắt là mặt trời, lưng là mặt trăng, cánh là gió, chân là đất và đuôi là các hành tinh. Lông của nó đại diện cho màu sắc của Ngũ hành: đen, trắng, đỏ, xanh và vàng [1].
[sửa]Nguồn gốc
Hình ảnh về phượng hoàng đã xuất hiện tại Trung Quốc cách đây trên 7.000 năm, thông thường trong các miếng ngọc và trên các tôtem (vật tổ) may mắn[cần dẫn nguồn]. Nó là tôtem của các bộ lạc miền Đông thời cổ đại ở Trung Quốc. Các thuyết ngày nay cho rằng nó có thể là hình ảnh đại diện cho một loài chim lớn thời tiền sử, tương tự như đà điểu, khá phổ biến ở Trung Hoa tiền sử.
Trong thời kỳ nhà Hán (khoảng 2.200 năm trước), phượng hoàng được sử dụng như là biểu tượng của hướng nam, được thể hiện dưới dạng con trống (phượng, 鳳) và con mái (hoàng, 凰) quay mặt vào nhau. Nó cũng được sử dụng để biểu thị cho hoàng hậu (hay các phi tần) khi trong cặp đôi với rồng là biểu thị của vua hay hoàng đế. Nó đại diện cho quyền lực mà Thượng đế ban cho hoàng hậu. Nếu hình ảnh phượng hoàng được sử dụng để trang trí nhà cửa thì nó là biểu tượng cho lòng trung thành và sự trung thực của những người sống trong ngôi nhà đó.
[sửa]Ý nghĩa
Phượng hoàng có ý nghĩa tích cực. Nó là biểu tượng của đức hạnh và vẻ duyên dáng, thanh nhã. Phượng hoàng cũng biểu thị cho sự hòa hợp âm dương. Theo truyền thuyết, nó xuất hiện trong thời kỳ hòa bình và thịnh vượng nhưng không có khi thời kỳ tăm tối sắp đến.
Tại Trung Hoa thời cổ đại, có thể tìm thấy hình ảnh của phượng hoàng trong các trang trí của các đám cưới hay của hoàng tộc, cùng với rồng. Điều này là do người Trung Quốc coi rồng và phượng (hoàng) là biểu tượng cho quan hệ hạnh phúc giữa chồng và vợ, một kiểu ẩn dụ khác của âm và dương.
[sửa]Sử dụng ngày nay
§ "Phượng trảo" (鳳爪), một món ăn trong ẩm thực Quảng Đông, là chân gà nấu lẫn với đỗ đen.
§ "Phượng" hay "Hoàng" là một trong số các tên gọi của con gái (tương tự như "Long" dành cho con trai).
§ "Long phượng thai" (龍鳳胎) là câu để biểu thị một cặp con trai, gái song sinh.
§ Phượng Hoàng cũng là tên gọi của một huyện ở phía tây tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, trước đây là một sảnh (廳 hay 厅).
§ Tại Triều Tiên, nó từng được sử dụng trong hình vẽ trên huy hiệu của hoàng gia hay của tổng thống.
§ Chu tước, một trong Tứ linh, đôi khi cũng bị nhầm lẫn là Phượng hoàng, trong khi trên thực tế chúng là hai thực thể khác nhau.
§ Hai con chim Phượng Hoàng cuộn vào nhau - biểu tượng của đài truyền hình Đài Loan.
[sửa]Trong dân gian
Phượng, hay Phượng hoàng, Phụng, là một trong 4 tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam và các nước Á Đông khác. Phượng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công... Các bộ phận của phượng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánhgió, đuôi là tinh tú, lôngcây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phượng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu và người đàn bà đẹp.
Việc đặt tên cho cháu gái, nay bố mẹ nó gọi tên: Vừng .
Vợ chồng bàn việc riêng đừng tâm tình với người khác, vì chẳng có sự đồng nhất nào. Vợ con thẳng thắn kiểu người Chăm bố rất ưng ý nhưng người khác có thể không? Việc đật tên nhánh họ Nguyễn Công nhà ta con trai đệm là Công, con gái đệm là Phượng có ý hay. Tiếng Phượng khó nói nhưng có gì là khó đâu, nếu thuần Việt gọi tên không kèm đệm Phượng thì khó gì đâu, nếu duy trì được chắc nhân loại tồn tại thì ý tưởng của bố sẽ hay khi ta tìm họ, khi duy trì lệ này. Phượng Uyên há chẳng hay sao.
Là đàn ông việc lớn phải quyết đoán nếu nghe đàn bà e nhiều việc rối mù. Mẹ con rất tốt nhiều người không hiểu hết lòng tốt của mẹ con. Nhưng nếu bố không quyết đoán cuộc sống của nhà chắc nhiều việc không được như hôm nay đâu con nhé!
Vừng sinh vào giờ Canh Ngọ, ngày Kỷ Sửu, tháng Đinh Dậu, năm Tân Mão , đúng như dự doán của ông nội.
Theo TửVi của Vừng thì cháu sẽ là người chính danh, là kho của của nhà ta, nó ra đời bố nó đủ: Khoa - Quyền - Lộc nghĩa là có thay đổi biến hoá tốt lên, mẹ nó sẽ tu hơn để mà hợp với nhà chồng hơn, nếu làm điều gì qúa sẽ bị ngăn chặn. Vừng sẽ hưởng Phúc của tổ họ Nguyễn Công từ 5 & 6 đời, có danh phận trong xã hội xưa, vì cân công đức của cháu được 5 lượng 2 chỉ.

Lâu ông mới thấy lá số có cân công đức lớn thế này. Mừng vô cùng!

4 thg 7, 2011

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Tiểu sử:
Nguyễn Công Trứ con quan Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Năm 1820 khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ở trường thi hương trấn Nghệ An. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca.
Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…
Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên. Ông đúng là một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước.
Sự nghiệp:
Hoạt động quai đê lấn biển vẫn tiếp diễn ở Kim Sơn
Quân sự:
Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nông Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.
Kinh tế:
Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng.
Thơ ca:
Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy
Hay:
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
Hoặc:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:
Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.
Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế.
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng bò. Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:
Năm mươi năm trước, anh hai ba
(Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam)
Hoặc trong bài "Bỡn nhân tình":
Tao ở nhà tao, tao nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi nói rằng không đến
Đến thì mi nói đến làm chi
Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông
Ghi chú: Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử.
Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi.

Đô Lương đón bằng di tích lịch sử văn hoá dòng họ Nguyễn Công

UBND huyện Đô Lương, UBND xã Thái Sơn và dòng họ Nguyễn Công vừa tổ chức trọng thể lễ đón nhận bằng di tích lịch sử văn hoá của dòng họ.
Theo lịch sử ghi chép của gia phả dòng họ thì Hoàng Giáp Nguyễn Trọng Ngạn (1289-1370), vị tổ của dòng họ Nguyễn Công ở xã Thái Sơn là con trai trưởng của trạng nguyên Nguyễn Hiền - Nguyễn Trang Ngạn - một danh thần tiêu biểu của đời Trần. Trong cuộc đời làm quan, ông đã trải qua 4 đời vua triều Trần và đều được trọng dụng, ở cương vị nào ông đều ra sức giúp dân dựng nước, lập nên sự nghiệp rạng rỡ ở các lĩnh vực chính trị quân sự ngoại giao, văn hoá. Năm 1334, ông cùng Thượng hoàng Trần Minh Tông đi tuần thú đạo Nghệ An và đánh dẹp giặc ai lao ở phía tây xứ Nghệ. Sau đó, ông ở lại vùng đất này và chọn Bạch Hà làm nơi lập cư mới trở thành vị tổ mở đầu cho dòng họ Nguyễn Công ở Đô Lương ngày nay. Với công đức xây dựng vùng đất này, sau khi ông mất nhân dân và con cháu đã an táng thi hài ông bên cạnh vợ ở làng Lễ Nghĩa xã Minh Sơn, huyện Đô Lương và được con cháu chăm sóc phần mộ chu đáo. Trong cao trào cách mạng 30-31, nhà thờ họ Nguyễn Công là địa điểm hoạt động bí mật của Đảng, nơi cất dấu tài liệu, nơi sơ tán làm việc của một số cán bộ Tỉnh uỷ trong thời kỳ như đồng chí Tôn Quang Phiệt, Tôn Gia Hưng, Tôn Gia Lòng và là nơi thành lập Tổng uỷ Bạch Hà. Trong kháng chiến chống thực dân pháp và chống Mỹ, nhà thờ còn là nơi hội họp, tập huấn cho cán bộ, bộ đội dân quân và dạy chữ quốc ngữ.
Xét qua bề dày lịch sử và công trạng của các bậc tiền nhân, trên cơ sở hồ sơ khoa học, UBND tỉnh Nghệ An đã ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử văn hoá để phát huy giá trị lau dài của di tích. Đây là niềm tự hào của dòng họ Nguyễn Công, cũng là niềm tự hào của Đảng bộ nhân dân xã Thái Sơn huyện Đô Lương nói chung về mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và văn hoá.


Thứ sáu, ngày 11 tháng hai năm 2011

Cụ Tổ Nguyễn Quang Thiều

Bản Cảnh Thành Hoàng Nam Sơn Linh ứng - Dực Bảo Trung Hưng Linh Phú Tôn Thần.
Tục thờ thành hoàng có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ, sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng.
Thành hoàng có thể là một vị thiên thần như Phù đổng Thiên vương, một thần núi như Tản Viên Sơn thần, một vị nhân thần có công với dân với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi là các yêu thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vô lý. Tuy nhiên các thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu thần...) luôn luôn tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ.
Theo tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị thành hoàng thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích và công trạng của các vị thần đối với nước với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị thành hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thần. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hòm sắc thờ ở hậu cung đình làng.
Thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng thờ một thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc hai ba làng thờ một vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích mỗi làng.
Đình làng là nơi thờ phụng thành hoàng và trở thành một biểu tượng văn hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của thành hoàng.
Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi.
Có thể cho rằng, thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng.
Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trước. Có lẽ, sự ngưỡng mộ thành hoàng cũng chẳng kém gì sự ngưỡng mộ tổ tiên.
Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nở rộ ở khắp nơi. Tục thờ cúng thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được phục hồi, vì có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với làng.
Thiên Hoàng Thiện Thịnh Cát Tứ Quan Trung Nam Cực Thọ Tinh Tràng cùng hưởng;
Lạc Thổ Lạc Giao Cù Lao Yên Trạch Đông Thành xuất sắc tự khai hoa.

16 thg 6, 2011

Sống thọ & khi hậu

Đến Mường Chậm (Lũng Vân, Tân Lạc, Hòa Bình) ít nhiều đều có cảm nhận mảnh đất, con người nơi đây thật yên bình thơ mộng và chậm rãi như chính cái tên gọi của nó. Người dân bản sống ở đây tuổi thọ rất cao và đã có ai đó ví von rằng nơi đây là thung lũng của "những người không chịu về chầu trời".Ông Dững cũng cho hay, Lũng Vân là một trong những địa phương nghèo nhất nhì của huyện. Nhưng người dân nơi đây tự hào về số lượng những người cao tuổi nhiều nhất nhì không chỉ trong huyện, trong tỉnh mà còn của cả nước. "Riêng số người trong độ tuổi thất thập cổ lai hy thì không đếm xuể, nhiều lắm. Còn những người từ 80 - 90 tuổi có cả trăm người và hàng chục cụ tuổi từ 90 đến trên 100. Hằng năm, mỗi dịp đầu xuân năm mới, địa phương lại tổ chức thượng thọ cho các cụ cao niên trong xã".Nhiều người đến Lũng Vân thấy cuộc sống nơi đây còn khó khăn, nhưng nhiều cặp vợ chồng lại sống với nhau "bách niên giai lão" thì hết sức ngạc nhiên. Nếu so với mực nước biển thì Lũng Vân có độ cao gần nghìn mét. Đây là thung lũng cao nhất trong khu vực. Khí hậu nơi đây chia làm hai mùa rõ rệt: mùa đông và mùa hè. Ông Dững chỉ về phía sườn đồi rồi bảo, ở ngoài đó nếu nhìn nắng nóng thế đấy, nhưng nếu đo nhiệt độ chỉ có khoảng 22oC, rất mát mẻ. Nhiệt độ vào mùa này nó cứ thế, tối đến có hôm phải đắp chăn bông ấy. Nhưng vào mùa đông thì rất lạnh. Ông Dững từng chứng kiến cảnh băng tuyết ở các thôn bản của mình, đó là một buổi sáng sớm khi ông thức dậy thì băng tuyết đã rơi ngập các mái nhà, các vũng nước bên con suối đều bị đóng băng. Rét làm cho những con trâu ở đây cũng không chịu được mà ngã xuống, ấy vậy mà những người già nơi đây thì vẫn bình chân như vại.

Lũng Vân – Chuyện bây giờ mới kể (P1)
lundi 8 février 2010 10:15:58
HANU, tourism, Hòa Bình, Lũng Vân
(Một chuyến đi, một hành trình, một điểm đến với những kỉ niệm đáng nhớ)



Cách đây hơn 2 tháng chúng tôi có “nhiệm vụ” lên Lũng Vân. Gọi là “nhiệm vụ” vì chuyến đi này không có một chút nào là ý chí tình nguyện, thích thú hết. 1 môn học với project xây dựng tour du lịch sinh thái cộng đồng cho khách du lịch, óai oăm là vì để có được 1 tour hoàn toàn tự nghiên cứu nên phải chọn một vùng núi có tiềm năng nhưng trước đây CHƯA HỀ CÓ DU LỊCH , nghĩa là … vùng đó hoang vu, hẻo lánh, ít người biết đến, và bạn sẽ không thể tìm thấy thông tin gì từ Internet. Thêm vào đó, vùng Lũng Vân chúng tôi phải đến còn là một vùng vừa thóat khỏi chính sách 135 của chính phủ, nghĩa là cũng rất nghèo nữa. Cứ tưởng tượng 5 đứa con gái đi đến vùng rừng núi xa xôi, toàn người dân tộc, và ngay cả đường đến đó cũng còn không có trên bản đồ. Chưa hết, chúng tôi còn bị ám ảnh với chuyện lạc đường cả nửa ngày và muỗi đốt chi chít từ các bạn đi địa điểm khác trước đó. Ôi chao là sợ ! Nhát chết!

Deadline đến gần. Chúng tôi xách balô lên đường, với vài thông tin và tấm ảnh lẻ tẻ trên mạng ko đáng kể, chủ yếu là đi bằng Niềm Tin: CỨ ĐI LÀ ĐẾN . Nhồi nhét trên 1 chiếc xe lên Hòa Bình , hỏi tài xế là dân Hòa Bình và lại một phen sợ xanh mắt vì người ta cam đoan trên đó chưa có điện, đường đi xấu, người dân tộc ko ai biết tiếng Kinh… Lên đến trung tâm thành phố Hòa Bình và ở qua đêm tại nhà người quen, ngay cả lúc này vẫn có ý kiến bàn lùi đi đến 1 xã khác gần hơn Lũng Vân…
6h sáng, chúng tôi bắt xe bus lên thị trấn Mường Khến (huyện lỵ của Tân Lạc).



Từ đó lại hỏi thuê 1 chiếc xe oto nhỏ đi lên Lũng Vân, vì xã vùng cao Lũng Vân một ngày chỉ có 1 chuyến xe lên đó vào buổi chiều thôi. Từ Mường Khến đến Lũng Vân là 13km, xe đi theo tỉnh lộ 440, qua Địch Giáo, Quyết Chiến, Dốc Mùn.
Thời tiết khá xấu, trời mưa và rét, càng lên cao, trời càng mù sương. Tầm nhìn xa chắc tầm 3-4 m, đến mức chúng tôi chỉ nhìn được bên đường là mấy lùm cây, trong khi dưới đó là cả vách núi .

Du lịch cộng đồng ở Lũng Vân
Nằm cách trung tâm TP. Hòa Bình khoảng 40km, Lũng Vân (huyện Tân Lạc) được nhắc đến như “nóc nhà của người Mường Bi”, một trong bốn cái nôi văn hóa lớn và cổ xưa nhất xứ Mường Hòa Bình. Với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vỹ cùng nét văn hóa đặc trưng, Lũng Vân hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cộng đồng.
Lũng Vân là thung lũng nằm ở độ cao 1200m so với mặt biển, quanh năm mây mù bao phủ nên còn có tên gọi Thung Mây. Thung lũng được bao bọc bởi núi Trâu, núi Pó, núi Tiên, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình vào khoảng 20 - 23,3ºC.

Bất chấp dòng chảy thời gian, văn hóa Mường ở Lũng Vân được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ những mái nhà sàn dốc hình con rùa với đức tin con rùa tượng trưng cho sự vững chãi đến những bộ váy của người phụ nữ Mường. Những chiếc váy truyền thống đa phần là màu đen, đầu váy trang trí bằng những hoa văn thổ cẩm nổi bật. Ngày nay, để phù hợp với lao động, váy có ngắn hơn song những đường nét tinh tế trong trang trí vẫn được lưu giữ. Lễ hội văn hóa xứ Mường Bi là một trong những sinh hoạt văn hóa cộng đồng được đông đảo người dân và du khách quan tâm. Mỗi lễ hội là một bức tranh phản ánh hiện thực xã hội Mường cổ, tiêu biểu như Nạ Mụ, Nhóm lửa, Xuống đồng, Rửa lá lúa, đặc biệt là hai lễ hội lớn: Khai hạ, Cơm mới. Bên cạnh đó, người dân Lũng Vân với sự chân chất vốn có từ trong nếp ăn ở tới lối suy nghĩ hay niềm tin thờ tự cũng tạo ra sức hấp dẫn không kém với du khách. Cảnh sách thiên nhiên thanh bình và con người hiền hòa nơi đây cách xa những ồn ã, khói bụi của thành thị, dễ khiến du khách mở lòng và tạm gác mọi toan lo thường nhật.

Với những tiềm năng sẵn có, Lũng Vân hiện đang là một điểm thu hút khách du lịch. Du khách đến Lũng Vân thường tập trung vào hai ngày cuối tuần và đông hơn vào mùa lễ hội, tức dịp đầu năm, sau tết âm lịch truyền thống hoặc theo lịch thời vụ gieo cấy, thu hoạch lúa, hoa màu... Đến Lũng Vân, du khách có thể tham quan, nghỉ đêm tại nhà sàn của người Mường, cùng làm những công việc hàng ngày với người dân hay tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng… Ở Lũng Vân có một chợ duy nhất, nằm ngay trung tâm xã, họp mỗi tuần một lần vào ngày thứ 3, du khách có thể đến đây để tìm hiểu những màu sắc văn hóa của dân tộc Mường. Những du khách thích khám phá sẽ không quên dành thời gian tắm suối, leo núi cô Tiên…



Những nhà dân có dịch vụ cho khách ngủ đêm thường chỉ có ở xóm Chiềng, tiêu biểu là nhà ông Thọ và nhà anh chị Trương Miệt. Giá chung cho một đêm ở là 200.000 đồng, khách sẽ ăn cùng gia chủ hoặc nhờ đặt ăn theo yêu cầu. Nhà hàng ở đây chưa xuất hiện nhiều, chỉ có vài địa điểm, được biết đến nhiều nhất là quán Trúc Hánh. Muốn tổ chức các hoạt động tập thể như đốt lửa trại hay dựng lều ngủ tại khu đốt lửa trại cần liên hệ trước với chính quyền xã, chi phí trung bình cho hoạt động này từ 100.000 - 300.000 đồng.

Nói về đề án phát triển du lịch của tỉnh Hòa Bình, Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ Du lịch - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hòa Bình Đặng Tuấn Hùng nhấn mạnh đến xu hướng phát triển du lịch văn hóa giai đoạn 2010 - 2015. Trong đó, những nét văn hóa của người Mường Bi được khuyến khích phát triển, đặc biệt để phục vụ du lịch cộng đồng. Hy vọng một ngày không xa, Lũng Vân sẽ trở thành điểm du lịch cộng đồng thu hút đông đảo du khách tìm đến khám phá và trải nghiệm.

Đinh Nhật Lê

15 thg 6, 2011

VỀ HỌ NGUYỄN CÔNG

Theo như một số nhà khảo cổ học (bảo tàng Nam Định)và các chuyên gia Nhật Bản đã về đây khảo sát.Lăng đá này có từ thời nhà Trần nếu đúng như gia phả để lại của dòng họ Nguyễn Công thì lăng đá này được vua Trần Thái Tông cho xây dựng để tỏ lòng biết ơn của nhà vua cho một vị quan họ Nguyễn Công trong triều đã có công lớn với triều đình (chưa rõ công trạng gì)thời đóLăng được xây dựng giữa cánh đồng (ngày nay người dân gọi là đồng cát vì đất ở đây có tỷ lệ cát khá cao giống như đất bồi ven sông hồng thích hợp cho trồng hoa màu cây lương thực)Hồi còn nhỏ tôi thường cùng mấy đứa bạn rủ nhau vào lăng bắn chim bắt tổ ong vì trong lăng có nhiều cây nhãn và nhiều cây dây leo rậm rạp leo quanh bốn bức tường xung quanh ,khi nào thích nằm lăn ra bậc thền đá mát rượiHiện nay lăng đá này vẫn còn khá nguyên vẹn, duy chỉ có một phần mái phía tây là bị nứt khoảng 2 cm dọc theo mái ,do bị sét đánh .Lăng có hình như một nụ sen khá đẹp mỗi cạnh khoảng 5 mét cao 15 mét,được ghép bằng những phiến đá lớn đồng nhất(mỗi phiến đá nặng khoảng trên 10 tấn).Chúng ta chưa lý giải được vì sao ngày xưa với công cụ thô sơ ông cha ta lại đưa được những phiến đá to lớn ở rất xa về như thế(loại đá xây lăng là đá xanh gần nhất cũng phải là Thanh Hóa cách gần 100 km).Trên tường đá phía trước có khắc nhiều dòng chữ nho đều đặn rất cân xứng.Cửa vào lăng được xây cổng gạch mái ngói nhưng đã hư hỏng khoảng 20 năm nay, Xung quanh lăng có tường bảo vệ được xây bằng gạch vồ dày 1,2 có chỗ 1,5 mét cao 3 mét,nhiều viên gạch vồ còn lại cho thấy nó được nung bằng củi hoặc rơm rạ (một thứ nhiên liệu có sẵn trong vùng thời xưa)gạch có kích thước 25-40-60cm nhiều viên hiện vẫn còn nguyên vẹn cho thấy kỹ thuật làm gạch của ông cha ta thời đó thật đáng khâm phục. Phần trên của nhiều đoạn tường gạch do thiên nhiên tàn phá đã bị sụp đổ .Năm 2004 dòng họ Nguyễn Công ,đứng đầu là ông Nguyễn Công Quỳnh (hiện sinh sống tại TP-Hồ Chí Minh)đã cho trùng tu lăng nhưng do kính phí có hạn nên chủ yếu chỉ là sửa chữa chắp vá để bảo vệ chứ không thể đủ kinh phí trùng tu được .Đây có thể coi như một di tích tôn giáo của một dòng họ có hàng ngìn năm lịch sử rất có giá trị về nhiều mặt (kiến trúc ,khoa học,tôn giáo ,lịch sử . v . v)chúng ta cần phải giữ gìn bảo vệ để con cháu chúng ta ngày mai sẽ hiểu hơn về giá trị lịch sử của nó về nhiều mặtĐôi nét về dòng họ Nguyễn Công ,đây là dòng họ không lớn trong khu vực hiện có khoảng 100 hộ cư ngụ tại xóm c xã Thành Lợi Huyện Vụ Bản Tỉnh Nam Định, và có khoảng 30 hộ đang sinh sống làm việc ở các nơi trong nước.Tại xóm c còn có một ngôi nhà thờ họ được xây dựng (ước khoảng 200 năm )theo kiến trúc cổ thời Trần (tường gạch cột gỗ mái ngói nam đỉnh mái có hoa văn rồng chầu nguyệt)ngôi nhà thờ luôn được bà con dòng họ trùng tu nhiều lần nên còn khá đẹp nguyên vẹn .Người dân họ Nguyễn Công ở quê sinh sống chủ yếu làn ruộng trồng rau nên kinh tế còn khó khăn thiếu thốn Thế nhưng dòng họ Nguyễn có truyền thống coi trọng chữ HIẾU với tổ tiên dòng tộc, mọi người ở xa gần luôn về nhà thờ xum họp gặp nhau ngày giỗ tổ trùng với ngày tết Thanh Minh hàng năm.Công việc trong ngày đó thường được trân trọng trang ngiêm dưới mái nhà thờ cổ.Mọi người gặp nhau trao đổi kinh nghiệm làn ăn dạy dỡ con cái học hành gia đình nào có con cái học giỏi được tuyên dương khen thưởng.Đó là một nét đẹp văn hóa rất quý của bà con họ Nguyễn Công nói riêng người dân châu thổ sông Hồng nói chung .