MỘT SỐ HÌNH ẢNH ẢNH VỀ HỌ NGUYỄN CÔNG – TRÀ PHƯƠNG
Lễ nhận họ tháng 7 năm Nhâm Thìn (2012)
Hậu duệ đời thứ IX Nguyễn Công Hiền đọc lời khai mạc lễ nhận họ.
Đội tế
Giỗ tổ 13/ 3 năm Giáp Ngọ
Ban thờ thượng tổ Nguyễn Công Tiến.
Phái nữ trong lễ giỗ Tổ
Bà Hương (đời thứ VII) đọc dự thảo gia phả họ Nguyễn Công
Nhìn về lăng tổ tiên.
Tháp báo ân họ Nguyễn Công
Vụ Sơn (Núi Vọ) nơi an táng tổ chi III họ Nguyễn Công.
LỊCH SỬ DÒNG TỘC NGUYỄN CÔNG
Kính thưa các cụ, các ông, bà,
thưa hậu duệ họ Nguyễn Công!
Hàng năm, vào ngày 13/3 âm lịch, tại nhà thờ Tổ Nguyễn Công thôn Trà Phương,
hậu duệ họ Nguyễn Công thành
kính, long trọng tổ chức lễ giỗ Thượng tổ Nguyễn Công Tiến. Những dịp này, chúng ta cùng
ôn lại lịch sử họ Nguyễn Công nhằm thấy mình ở đâu
trong thế gian này, cùng
đoàn kết để xây dựng họ ta ngày càng phát
triển tốt đẹp.
HỌ NGUYỄN CÔNG Ở VIỆT NAM
Theo gia phả của một số họ NC ở Nghệ Tĩnh viết:
"Cụ tổ huý Nhân là cháu nội cụ Khổng Cận, là con cụ Khổng Yển, quê gốc ở Ích Châu Trung Quốc, mẹ họ Vương.
Cụ sinh năm Mậu Tuất; tính ham đọc ngũ Kinh thi đỗ Đồng tam giáp. Cụ được sai làm sứ thần ở Nam Việt, đã từng vâng nhận danh hiệu tướng quân ở Phương Bắc. Về sau đổi sang họ Nguyễn. Ông đóng đồn ở sách A Dương lấy bà vợ thiếp họ Nguyễn Sinh được 2 trai, 2 gái. Ông mở nền ở đây gia đình thịnh vượng con cháu tiến lên, Khi ông bà mất đi thì được hợp táng ở Phúc Sơn. Mộ để hướng Quý Đinh, có khí lành cho mả kết, nên con cháu đỗ đạt, phát cả văn lẫn võ, nên họ lập một toà miếu thờ, dân xã thờ cúng, và có chúc thư để lại."
Hoặc:
"Họ ta ở Đông Lỗ, phái hệ từ thần minh sinh ra. Ông tổ Khổng Cận sống vào thời Hán Vũ Đế làm chức quan Tư nông [coi việc nông nghiệp]. Có con trai là Khổng Yển. Cụ được sai xuống phương Nam làm việc. Ông cụ lấy người vợ thiếp là Nguyễn Thị Đoàn ở Sách Dương A. Khi bà mang thai được vài tháng thì chồng mất. Bà [vợ thiếp] sinh con trai tuổi Kỷ Sửu. Ông con thông minh, đọc nhiều sách, có tài thao lược, đã thi đổ cao ở quê mẹ, và đổi tên họ thành Nguyễn Duy Luân. Ông sinh gặp thời vua sáng là Lý Thái Tông (sang triều vua Lý Nhân Tông ông mới đổi sang họ Nguyễn) (1). Nhà vua xuống chiếu tuyển chọn những người bác học thông nho, ông thi trúng Tam trường rồi đến lúc gặp Tống xâm lăng nước ta, nhà vua sai tướng Lý Thường Kiệt chống giặc. Ông được theo quân giúp việc tham tán, nhờ tài mưa lược quyết đoán, nên được thăng chức cao, ông đem quân đến chặn đoàn thuyền vận lương của Trương Thủ Tiết.
Sau khi giặc tan ông được phong tước được làm giám ngự trấn Thanh Hoa và được 8 người con trai mang chức hàm Hoằng Tín [đại phu]. Vì dòng dõi đông đúc và xa cách, nhưng đó thực là họ hàng nhà ta. Sau thời kỳ ấy họ ta phát đạt về khoa bảng.
Sang đời Trần thì có một vị tổ tên là Nguyễn Ngạn (tên huý là Đức)(1) thi đổ Hoằng giáp, trải làm Thượng Thư các bộ hình, lễ và chức Khâm sai tiết chế bình Chiêm rồi về triều làm Nhập Thị Thừa Tướng Quản quốc quân Tiền vệ thự vệ sự, tước Vị Dương Hầu. Vâng mệnh quản 7 huyện Anh Quang (Anh Đô, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Chân Phúc, Đức Quang, Hương Sơn, Can Lộc) đống đồn ở núi Quỳ Lĩnh 5 doanh (nay là hai ngọn núi Phong Nam, Hương Quỳ)".
Tại xóm C, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có lăng đá từ thời nhà Trần. Khoảng giữa thế kỷ XVIII, theo gia phả của dòng họ Nguyễn Công thì lăng đá này được Vua Trần Thái Tông cho xây dựng để tỏ lòng biết ơn của nhà Vua cho một vị quan họ Nguyễn Công trong triều đã có công lớn với triều đình.
Các nhà khảo cổ học Việt Nam và Nhật Bản khảo sát cho biết: Lăng hình vuông, mỗi cạnh khoảng 5 m, cao 15 m, hình giống như một nụ sen được ghép bằng những phiến đá xanh Thanh Hoá, nặng khoảng trên 10 tấn. Đây là khu lăng mộ xưa nhất và nhiều văn bia cổ nhất về họ Nguyễn Công tại Việt Nam.
Họ Nguyễn Công nay tập trung ở các tỉnh : Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Bình, Hà Nội, Bắc Giang…Hải Phòng.
MỘT SỐ DANH NHÂN HỌ NGUYỄN CÔNG
Nguyễn ( Công)
Trung Ngạn ( 1289 – 1370 ), tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng,
huyện Thiên Thi ( Nay là Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Ông
là một nhà chính trị, một đại thần có tài, được xếp vào hàng “ Người phò tá có công lao tài đức đời Trần”. Cùng với ông là Trần quang
Khải, Mạc
Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hải, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mai, Trần Nguyên Đán. Ông
là Tổ họ Nguyễn Công lâu đời nhất Việt Nam. Trên quê
hương Thổ Hoàng, Ân Thi,
Hưng Yên, phần mộ của ông đặt trên cồn Con Nhạn, nằm ở phía Tây Nam làng Thổ Hoàng. Cách phần mộ khoảng
1km đường chim bay, có nhà thờ
ông là ngôi nhà ngói 3 gian, diện tích khoảng 35 m2 trên khu đất rộng gần 200 m2 . UBND Thành phố Hà Nội, tỉnh Hưng Yên và dòng họ Nguyễn đang có kế hoạch xây dựng một khu tưởng niệm Ông tại làng Thổ Hoàng và dự kiến sẽ hoàn thành vào dịp kỉ niệm 1000 năm Thăng
Long Hà Nội.
Tại Nghệ An, họ Nguyễn Công tại xã Thái
Sơn,
huyện Đô Lương là dòng dõi của Nguyễn ( Công)
Trung Ngạn đã xây lập nhà thờ ông và đã được tỉnh Nghệ An công nhận là “ Di
tích lịch sử ,văn hoá cấp
Tỉnh, Thành phố”. Họ Nguyễn Công này phân
thành 4 chi, căn cứ vào đệm là : Công – Danh – Tài – Đức, phân bổ gần khắp tỉnh Nghệ An.
Chi
Nguyễn Tài tại xã Thanh Vân, huyện Thanh Chương có nhiều nhân tài như : Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một chuyên gia ngôn ngữ hàng đầu
Việt Nam,
Nguyễn Tài Tuệ, nhạc sĩ nổi tiếng thế kỷ XX.
Nguyễn Công Trứ ( 1778 –
1858 ), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc thời nhà Nguyễn.
Họ Nguyễn Công làng Yên Hoà, nơi có tới 19 người đỗ Tiến sĩ, được ghi tên tại các văn
bia ở Văn Miếu quốc Tử Giám.
Họ Nguyễn Công thời nay xuất hiện nhiều nhà khoa học, tướng lĩnh,
doanh nhân…, là một họ lớn đang tập hợp để thành lập ban liên lạc toàn quốc.
HỌ NGUYỄN CÔNG Ở HUYỆN KIẾN THUỴ
Họ Nguyễn Công cư trú ở 4 làng: Trà Phương có 2 chi được 11 đời; Cổ Trai; Kim sơn và làng Chiếng không quá 7 đời, đến nay vẫn chưa thấy
mối liên hệ họ Nguyễn Công các làng này với nhau.
Theo Đại
Việt Sử Ký toàn thư: Làng Trà Hương
đã có trước
thời Lý (1009 – 1225). Năm 1813, nhà Nguyễn thấy chữ “Hương”
phạm huý nên đổi thành “ Trà Phương” .
Năm 1070 nhà Lý đánh thắng Chiêm Thành, bắt người Chăm làm tù binh an trí họ ở
Trà Hương. Người Chăm đã dựng nơi thờ Thánh ở phía Tây
Nam Mả Đò, sau đó họ đã vượt biển về Nam, để lại Đền thờ không còn người thờ cúng, nên người Việt gọi là “ Chùa Bà Đanh”.
Năm Thuần Phúc Sơ niên (1565), Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, cùng các thân
vương nhà Mạc chuyển và xây chùa ở vị trí hiện nay, được
công nhận là di tích cấp Quốc Gia.
Nữ người Chăm rất đẹp, nên thời Lý, vua có chiếu cấm các quan lấy gái
Chăm, đề phòng họ làm nội gián, vì thời này hai
dân tộc này là kẻ thù của nhau. Thái
Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn người làng Trà Hương, vợ vua Mạc
Đăng Dung là người lập nên nhà Mạc (1527 – 1592), cùng Thiên Thần Vọng
Hào; Đại Vương Linh quy,
Thái Hoàng Thái Hậu là Thành Hoàng
làng Trà Phương.
Người lai thường đẹp và thông minh, có phải chăng Thái Hoàng
Thái Hậu họ Vũ là hậu duệ của Việt
– Chăm?, người đã có công lớn xây dựng vương triều nhà Mạc, khôi
phục Đạo Phật tại Bắc Bộ. Vũ Thái Hoàng Thái
Hậu có công làm chùa, tô tượng, đúc chuông,
làm cầu, mở chợ... cúng Tam Bảo nhằm hoằng
dương chính pháp nhà Phật, lấy từ bi hỉ xả vô ngã vị tha làm
tông chỉ. Theo PGS – TS Đinh Khắc
Thuân, tác giả văn bia thời Mạc ( NXB. HP. 2010), chỉ
tính riêng số bia ghi công đức hiện còn thì Đức bà vẫn
là Người đóng góp công , của nhiều nhất. Chùa ít nhất 10 quan tiền là chùa Báo Ân xã An Chiểu, huyện Phủ Cừ,
Hưng Yên; 6.000 lá vàng cho chùa Bảo Phúc xã
Thái Khê, huyện Yên Hưng – Quảng Ninh; Các chùa
Bà Đanh (Thiên Phúc xã Thuỵ Hương); chùa Hoà
Liễu, chùa Du Lễ đều thuộc huyện Kiến Thuỵ; chùa Hoa Tân xã An Luận
huyện An Lão; chùa Đông Minh, chùa Đốc Hậu huyện Tiên Lãng… chùa ít thì 10 mẫu, chùa nhiều nhất đến 30 mẫu. Số tiền trên đều do Đức Bà bỏ tiền
riêng ra mua. Như vậy bổng lộc mà Bà được hưởng, phần lớn dùng vào việc Phúc Đức. Dân đương thời tôn Bà
là “
Bậc Thánh Mẫu
của Thánh triều,
chính vị Đông Trào, hoá thành Nam quốc, sánh với
Đức Thánh Thiện
Đồ Sơn ( nhà Hạ)”.
Phong thuỷ
làng Trà có nhiều vẻ đẹp và bí ẩn. Xưa trên đỉnh núi Chè nhìn xuống đồng Hương, thấy rõ hình một chiếc lược ôm lấy
gương tròn. Thế đất ấy, theo phong thuỷ thì người làng Trà Phương
xưa thường sinh con gái có nhan sắc, đức hạnh, Thái Hoàng Thái Hậu là điển
hình.
Nhiều cổ vật, hơn chục chum tiền, gần trăm thỏi bạc, phù điêu kiến trúc cung đình… tìm thấy
trong lòng đất làng Trà cùng bao huyền
thoại và câu đồng giao cách khoảng 500
năm “
Cổ Trai Đế vương, Trà Hương Công chúa” đã chứng minh làng Trà liên quan đến triều đại nhà Mạc. Nên từ đó làng Trà Hương đứng đầu hàng tổng trong 6 làng:
Trà Hương, Hoa Đường, Hương La,
Xuân La, Quế Lâm và Hương Đường, nằm
trong vùng văn hoá Dương Kinh của nhà Mạc đang được giới sử học và xã hội vinh danh là Triều đại chính thống của Việt Nam.
Năm 1592 thua nhà Lê, nhà Mạc phải chạy lên phía Bắc, người làng Trà sợ nhà Lê
trả thù nên đã chạy theo.
Khảo sát các
họ đến
Trà Phương khoảng hơn 200 năm,
có thể dân làng thời cận đại đã theo nhà Tây Sơn, năm 1802 nhà
Nguyễn thống trị Việt Nam, sợ trả thù nên người làng Trà lại di đi và dân các nơi lại di đến
Trà Phương?.
Xét về
phong thuỷ làng Trà Phương
là nơi địa linh, nên Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến đã chọn để
an cư vào đầu thế kỷ XVIII.
HỌ NGUYỄN CÔNG – TRÀ
PHƯƠNG
Theo truyền ngôn của họ Nguyễn Công – Trà
Phương: Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến chưa biết từ đâu tới, trong văn tế không có danh phu nhân. Chỉ cho biết Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến đến Trà Phương vào năm 1802, khi rời quê Người chia gia đình làm 2: Vợ cùng 1 con trai
và 3 con gái đi đường bộ.
Người cùng 3 con trai
đi đường thủy đến cửa
sông Văn Úc vào mùa hè năm 1802, do nước lũ chảy xiết
nên Người phải cho thuyền đi vào sông Họng, qua Cổ Trai, Đầm Lá, đến Đầm Trà Phương thì tối. Thấy phía Đông có
ánh đèn, Người lái thuyền vào nơi ấy thì đó là chùa Trà Hương, Người neo thuyền vào xin
lửa và xuống thuyền nghỉ
qua đêm. Sáng dậy thấy phong cảnh hữu tình, Người lên núi Chè, nhìn xuống
thấy phía Bắc cao hơn cả, nên đã mua đất của dân bản xứ,
(nay là khu đất của ông Nguyễn Công Ngoạ) làm nơi ở của Người và con trưởng Nguyễn Công Đạt. Cách 300 m về phía Tây Nam là nơi ở của con thứ 2 Nguyễn Công
Trình, nơi
ở của con thứ 3 Nguyễn Công Sự cách nơi ở của bố khoảng 50 m về phía Nam.
Trải qua thời gian, loạn lạc, cũng như nhiều dòng họ, gia phả dòng họ không
còn. Nhưng
may thay còn "bản văn tế họ Nguyễn Công", cụ NC Khỏa đời thứ 7 lưu giữ; Năm 2012 hậu duệ thứ X họ ta là Nguyễn Công Khanh đã tìm được
văn bản “ Tổng Trà Phương khoán ước” lưu ở Viện Hán Nôm Hà Nội cho thấy :
Con thứ 2 của Thượng Tổ là Nguyễn Công Trình làm cai tổng, được phong hậu thần
Trà Phương (1825), cháu là Nguyễn Công Hậu (Con thứ 2 Nguyễn Công
Trình) tiếp làm cai tổng Trà Phương ( 1845 ).
Trích đoạn của “ Tổng Trà Phương
Khoán ước” :
Nay bản xã hội họp lập văn từ cam đoan
để lưu truyền vĩnh viễn : Giao ước hàng năm cho thuê mỗi mẫu 13 quan, 6 mạch làm định mức,
nhưng giao Lý trưởng chiếu
Đông, hè 2 vụ thu khấu lấy tiền thuế, còn lại bao
nhiêu thì giao cho Tiên chỉ nhận thu lấy để lo giỗ, chạp ( giỗ ngày 15/6, giỗ chạp ngày 15/12). Bản cam đoan này ghi rõ ràng, đầy đủ các họ theo từng mục, kí kết mà chuyển giao cho Tiên chỉ nắm giữ để truyền lại mãi mãi lâu dài, chớ
có phụ lòng công đức cao dày của ta là Hậu Thánh Mẫu (tức Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ ), vậy nay lập bản
cam đoan.
Ngày mùng 7 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) lập đoan từ.
Trùm Tổng Hậu thần Nguyễn Công Trình kí
Tri
tổng hậu thần Ngô Đình Trạc kí
Tri
tổng Hậu thần Vũ Đức Chiêu kí.
Trích "Lập đoan từ ngày mùng 6
tháng 2 năm Tự Đức thứ 2 ( 1849 ):
“ Vì thế bản xã hội họp có lời cậy nhờ Cai tổng Ngô Duy Nhất xuất tiền của, công sức giúp dân xã chỉ rõ địa giới canh tác. Nếu xã nào, người nào nhiễu sự, tranh chấp, gây tổn phí như thế nào bản xã cùng nhận, đợi sau thành ruộng canh tác, dân xã chia 3 mẫu ruộng ở xứ ấy, đến trăm năm sau để danh ở bảng, đặt ở bên trái trong Đình phụng thờ, đến kì cầu phúc được dự Tế văn. Về sau
trong xã, người nào ngang ngạnh, được ruộng mà quên ơn, chôn dấu bảng ký, bản xã quy
định thì tróc tiền văn 6 quan và coi là người ngoài.
Hễ trong Đình có việc Tế tự, yến ẩm, trong xã người nào ngồi cùng với người ấy thì cũng coi là người ngoài để thành phong tục. Nay lập cam đoan, nếu người làm
trái với lời đoan, xin Trời Đất
âm dương, tam vị Thánh vương ngưỡng trông chiếu giám
chu diệt tam tộc để chỉ rõ cho kẻ làm trái phong tục.
Nguyễn Công Hậu kí
Nguyễn Đức Trang, Nguyễn Đức Khuê, Vũ Công Liêu,
Nguyễn Đức Cự, Ngô Xuân Hoằng, Vũ
Phú Giang, Nguyễn Đức Lãnh, Ngô Đình Ổn, Đặng
Văn Vui cùng kí, viết văn ước Nguyễn Đức Dòng kí”
Viện nghiên cứu Hán Nôm
Hà Nội, ngày 6 tháng 4
năm 2012. Người dịch: Mai Hương , TS Mai Ngọc Hồng hiệu đính.
Qua văn bản cổ này khẳng định: Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến đến Trà Phương khoảng đầu thế kỷ XIX cùng 3 con
trai: Nguyễn Công Đạt, Nguyễn Công Trình và Nguyễn
Công Sự. Nhưng Người không
tham gia việc công có thể Người tham gia triều Tây Sơn, chức sắc gì, quê ở đâu Người không tiết lộ, do sợ sự trả thù của chính thế đương thời. Nhưng Người đã đưa con trai thứ Nguyễn Công Trình làm chánh tổng
Trà
Phương và có nhiều công lao, đóng góp tiền
của với bản xã nên được dân tôn
làm Hậu thần (trước ngày mùng 7 tháng chạp
năm Minh Mệnh thứ 6 - 1825 ).
Con thứ 2
của tổ Nguyễn Công Trình là Nguyễn
Công Hậu tiếp tục làm chánh tổng Trà Phương và đứng đầu hàng tổng trước
ngày mùng 6 tháng 2 năm tự Đức thứ 2 ( 1849 ).
Chánh Tổng
Nguyễn Công Hậu đã cho học chữ, đào tạo, giúp vật chất để Ngô Duy Nhất (là con thứ 2 của họ Ngô Bá) từ người giúp việc tranh được chức lý trưởng Trà Phương, rồi chánh tổng Nguyễn Công Hậu gả con gái trưởng là Nguyễn Thị Tô cho lý trưởng Ngô
Duy Nhất, sau làm chánh tổng Trà Phương (như bản Trà Phương khoán ước đã ghi), Ngô Duy Nhất đã sinh Ngô Duy Ức, Ngô
Duy Ức sinh Ngô Duy Hức (ba đời họ Ngô làm chánh tổng Trà Phương).
Năm 1990, họ Nguyễn
Công – Trà Phương nghiên cứu bản văn tế thấy chi thứ 3 khuyết danh từ đời thứ 2. Khoảng đầu thế kỷ XX một số
người ở Vàng Xá, An Lão về nhận họ nhưng chưa nối được vào chi nào, là
đời thứ mấy của họ Nguyễn Công? Nên họ ta đã lập Ban
nghiên cứu dòng họ Nguyễn Công gồm đại diện chi I, chi II.
Đến năm 2010 họ NC cư trú tại Trà Phương đến 11 đời.
Tháng Ngọ,
năm Tân Mão (2011), duyên lành đến, ông
Ngô Minh Hải người làng Trà Phương
cho ông Nguyễn Minh Hiền – Chủ tịch HĐ gia tộc họ Nguyễn Công làng Đồng Tử biết: Ở
Trà Phương có họ Nguyễn Công. Qua ông Hải, ông Hiền đã gửi
sơ đồ phả hệ họ Nguyễn Công – Đồng Tử cho họ Nguyễn Công – Trà
Phương.
Nghiên cứu
kỹ văn bản này, cụ Nguyễn
Công Hường đời thứ 7 và Nguyễn Công
Kha đời thứ 9 họ Nguyễn
Công – Trà Phương, vào tháng 5 năm 2011 đã đến Đồng Tử lại đúng vào đúng lễ khánh thành nhà thờ ngành thứ họ Nguyễn Công – Đồng Tử, khi cụ Hường đến
bái, hương bùng cháy như chào mừng
người thân lâu rồi mới gặp mặt. Trong cuộc hạnh ngộ này, họ Nguyễn Công – Đồng Tử đã vui mừng hợp tác để xác định họ Nguyễn Công – Đồng Tử có phải là nguồn họ Nguyễn
Công – Trà Phương không?.
Theo Tiền
nhân họ Nguyễn Công – Đồng Tử truyền: Họ NC đến từ Xuân La, Núi Đối. Đầu thế kỷ XX, Cụ Nguyễn
Dưỡng Tảo và Nguyễn Văn Tưởng đã đi bộ đến Núi Đối, Xuân
La tìm họ nhưng không thấy có họ Nguyễn Công.
Năm 1999 trùng tu nhà thờ họ, cụ Nguyễn Văn Cận tìm được tư liệu tiền nhân để lại
có câu trong bài thơ chữ Hán: “Tổ họ Nguyễn Công ta có nguồn từ Xuân La, Núi Đối, làng Trà”. Địa danh mới "Làng
Trà” đem lại một sức hút trong dòng họ. Nhưng làng Trà là làng nào, ở đâu? Họ đã tìm kiếm các địa danh của Hải Phòng và thấy nó liên quan đến câu phương ngôn“Cổ Trai Đế vương,Trà Hương
Công chúa”.
Căn cứ
những sự kiện trên, các ông Linh, Sửu,
Ngọ và các cháu Thái, Hiền
,
Thường họ Nguyễn Công – Đồng Tử đã đến
Trà Phương để xác minh. Thấy Trà Phương có họ Nguyễn Công, phát triển đến nay đã được 11 đời,
thượng tổ Nguyễn Công Tiến sinh 3
chi :
-
Chi I : Trưởng là Nguyễn Công Đạt.
-
Chi II : Trưởng là Nguyễn Công
Trình.
-
Chi III : Trưởng là Nguyễn Công Sự.
Chi I và II cư trú ở Trà Phương, nghi chi
III đã di cư đến
Vàng Xá từ lâu, nhưng gia
phả chi III còn khuyết từ đời thứ 3 - 4 nên không rõ thế nào?.
Sau nhiều
lần khảo sát qua lời kể, tài liệu của họ Nguyễn
Công – Trà Phương và Đồng Tử xác định Chi III : Tổ là Nguyễn Công Sự sinh
Nguyễn Công Tự, Nguyễn Công Tự sinh: Nguyễn Công Nhiên và Nguyễn
Công Phát. Nguyễn Công Nhiên sinh ngành Nguyễn Công ở Vàng Xá; Nguyễn Công Phát sinh ngành Nguyễn Công ở Đồng Tử.
Làng Đồng Tử (trước
năm 1945 là xã Đồng Tử, thuộc tổng Phù Lưu, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải
Dương, nay thuộc phường Phù Liễn, quận Kiến An). Trương Đồng Tử lấy vợ là
Phùng Thị Trinh (chị gái Phùng Hưng). Trương Đồng Tử có công trong việc giúp
dân làng nơi đây yên ổn làm ăn, sinh sống. Ông và 3 con của ông đều tham gia
cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng, đánh đuổi đô hộ nhà Đường, dựng nền độc lập (791 -
802). Đình thờ 7 Thành Hoàng,
trong đó có Đồng Tử công chúa ( Phùng Thị Trinh), Trương Đồng Tử…
VỀ HỌ NGUYỄN CÔNG Ở ĐỒNG TỬ
Cụ Nguyễn Công Cán đời thứ 7 (1897 – 1982) có kể
chuyện liên quan đến địa danh Đồng Tử: tổ Nguyễn Công Hậu đời thứ 3 Nguyễn Công – Trà
Phương là cháu nội Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến làm
chánh tổng Trà Phương trước ngày mùng 6
tháng 2 năm Tự Đức thứ II (1849), cách
nay hơn 160 năm, là người nổi tiếng về học thuật, giàu và có thế lực trong huyện Nghi Dương. Người
lên tỉnh Hải
dương, qua đò Vọ bao giờ cũng người sang trước,
ngựa sang sau, đến Đồng Tử nghỉ chơi rồi mới lên Hải dương, việc quan xong lại về Đồng Tử nghỉ rồi mới về Trà Phương,
nhưng nghỉ, chơi với ai thì không tiết lộ. Có phải chánh tổng Nguyễn Công Hậu lo cho sự truyền đời của họ Nguyễn Công nên bí mật cho
cháu họ là Nguyễn Công
Phát đi đến Đồng Tử?
Nay đến núi Vọ, ta còn thấy mênh mang sông nước, thì cách nay gần 200 năm vùng này hoang vu, huyền bí biết bao, vậy mà Nguyễn Công
Phát dám đi đến sống ở vùng này đã thể hiện anh hùng rồi. Nơi đây, thủy, bộ, tiến thoái thuận lợi, rất phù hợp với ý tưởng của tiền nhân nhằm chống lại truy sát của nhà cầm quyền đương thời.
"Người bố trí cho hậu duệ
lánh đi mà không truyền lại, sợ khi bị trả thù, có thể người ở lại không chịu được cực hình mà khai ra người
đã lánh đi,
nên chỉ có người ra đi được truyền lại gốc tích của mình, đó là cách giấu người thời
xưa".
Cụ Nguyễn Công Phát đến Đồng Tử
trước năm 1856, theo Tiền nhân kể : Người đến Đồng Tử làm nghề nông và đánh cá
trên sông Đa Độ. Vào một đêm có người đàn ông gọi đò để sang thôn Úc Gián,
mãi mà đò không sang, thấy vậy
Người chở ông khách qua sông
sang thôn Úc Gián. Ông khách trả tiền nhưng Người không nhận và nói
rằng: “Ông lỡ
đò, tôi giúp thôi”. Thời gian trôi đi, một đêm mưa rét lại thấy tiếng đàn ông gọi đò từ Úc Gián vọng sang mãi, thấy vậy Người lái thuyền sang và
chở người đàn ông sang Đồng Tử, ông khách trả tiền,
Người không nhận và nói:“Tôi
đánh cá ở đây, thấy ngài lỡ
đò nên chở thôi”, ông khách vô cùng cảm kích và đáp: “Cách nay đã lâu, tôi bị lỡ đò trong đêm, chính ông đã chở
tôi sang sông, nay ông lại cho tôi
sang sông mà không lấy tiền, ông thật là người tốt, tôi không
biết lấy gì tạ ơn ông”. Sáng dậy hai người dùng cơm sáng
xong, ông khách nói: “ Tôi có biết một chút về địa lý, thấy phong thuỷ
sông núi này tuyệt đẹp, ông là người tốt, tôi khuyên
ông chiều nay đem 7
bát đặt xuống nơi mà ông thích, đến giờ
Tỵ ngày mai, thấy bát nào có
nhiều hơi nước bám vào thành
bát, nơi ấy linh, nếu táng cốt
của Tiền
nhân vào, ngành nhất sẽ phát quan, ngành nhì sẽ phát nghệ
nhân”.
Nghe
lời khách, đến giờ Tỵ hôm sau, Người thấy 1 trong 7 bát có nhiều hơi nước
bám vào thành bát, lúc ấy mặt trời ở bên tay phải, ngước nhìn núi Vọ ( Vụ Sơn) thấy có phiến đá như bàn tay chỉ lên trời. Theo lời ông khách, Người chèo thuyền về quê gặp anh trai tỏ lời của ông khách, anh tên là Nhiên mắng, đuổi, vì lâu lắm rồi
Người mới về quê, lại nói điều không vừa tai anh. Đêm ấy, Người đào trộm mấy hài cốt của tiền nhân họ Nguyễn Công mang táng vào sân núi Vọ như nay ta thấy.
Núi Vụ Sơn (Vọ)
Như vậy có thể thượng Tổ Nguyễn Công Tiến năm 1802 đến Trà Phương, vì Người đã tham gia triều Tây Sơn, nên Người phải giấu mình trước nhà cầm quyền
đương thời, không lộ chức sắc
và quê hương. Phải là người có tài, của thì mới đến ngụ cư mới đưa con trai thứ 2 là Nguyễn Công
Trình, làm chánh tổng Trà Phương (trước 1825). Chánh tổng Nguyễn Công Hậu đời thứ 3 vì lo cho tương lai dòng họ Nguyễn Công nên giấu cháu họ là Nguyễn Công
Phát (con NC Tự) đời thứ 4 đến Đồng Tử khoảng
trước năm 1845.
Nguyễn
Công Phát di từ Trà Phương đến Đồng Tử là ngành 2, chi III họ
Nguyễn Công ở Trà Phương, đã phát triển được 9 đời, có nhiều người là
chánh tổng, lý trưởng, danh
nhân cống hiến cho sự phát triển lịch sử tổng Phù Lưu và tỉnh Kiến
An xưa và nay, còn ghi dấu ngôi nhà thờ 5 gian,
hậu cung 3 gian bằng gỗ lim trên khu đất 7.200 m2 tại
Đồng Tử.
Nay hậu
duệ họ Nguyễn Công ở Đồng Tử có nhiều người, nhiều hậu duệ đã tiếp tục phát huy sự thành đạt của Tổ tiên. Chỉ tính riêng ngành cụ NV Tuân hậu duệ phát triển lớn mạnh, theo văn bản của ông Nguyễn Ngọc Bội cho biết: chi này tính đến ngày 11/11/năm Tân Mão đã có 511 hậu duệ (nội, ngoại) nhiều người có học vị: 3 phó giáo sư, (2 người công tác tại khoa hạt nhân Đại học Quốc gia Hà Nội là Nguyễn Ngọc Hoàn,
Lê Viết Ngọc
Phượng, 1 đang công tác tại trường đại học
quân y là đại tá, phó giáo sư
Nguyễn Minh Thông); 4 tiến sĩ; 3 thạc sĩ; 70 cử nhân, kỹ sư; 3 cao đẳng; 4 sĩ quan cao cấp QĐND. Nhiều cán bộ trong cơ quan nhà nước, doanh nhân
thành đạt.
Chi III, nghành 1 khoảng cuối thế kỷ
XIX di cư đến Vàng Xá, huyện An Lão.
Ngày 30/6 năm Tân Mão, họ ta đã khẳng định chi III Nguyễn Công – Trà
Phương, Tổ là Nguyễn Công Sự và Nguyễn Thị Kha sinh ra
ngành 1 cư trú tại Vàng Xá, huyện An Lão,
ngành 2 cư
trú tại Đồng Tử, quận Kiến An.
Ngày 8/7 năm Tân Mão, tại Trà Phương, họ Nguyễn Công đã long trọng tổ chức lễ nhận họ của chi III Nguyễn Công ở Vàng Xá và Đồng Tử.
Hơn 100 năm cả họ Nguyễn Công mới xum họp đầy đủ, cùng thành kính, long trọng tổ chức Lễ bá cáo Trời - Đất, ba vị Thành hoàng: Thiên thần
Vọng Hào, Đại vương Linh Quy,
Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ, thượng tổ Nguyễn Công Tiến cùng
phu nhân và tiền nhân họ Nguyễn Công. Thiên, địa, nhân hoà hợp, lạ thay xung quanh
không mưa, nhưng toàn cõi Tổng Trà Phương xưa
trời đổ
mưa rào như thể Trời – Đất đưa người xưa hiện về vui mừng cùng hậu duệ.
Từ nay họ Nguyễn Công sẽ mở ra một trang sử mới xứng đáng với tiền nhân và phát triển với một tầm cao mới.
Ngày 10/3 năm Nhâm Thìn, tại thôn Trà Phương
– Thuỵ Hương – Kiến Thuỵ - TP Hải Phòng, họ Nguyễn Công long trọng tổ chức Đại Lễ Chạp Tổ, kỷ niệm 210 năm ( 1802 –
2012 ) Thuỷ Tổ Nguyễn Công Tiến đến Trà Phương lập nghiệp, 160 năm Cao Tổ Nguyễn Công Phát dời Trà Phương đến đồng Tử lập nghiệp. Trời đất hôm đó thật tuyệt, nắng nhạt, nhiệt độ 22 độ C, gió Tây Bắc 4m/s, độ ẩm 69%, bạt che màu
ngũ sắc cùng đồ tế làm rực sáng cả sân nhà trưởng và xung quanh. Các hậu
duệ lòng thành đến từ chiều
mùng 9 để thực hiện công việc được giao.
Không phân biệt trai, gái, dâu, rể hân hoan
hội về, đội tế
làng văn hoá Tú Đôi trống phách vang lừng làm cho ngày Đại Lễ chạp Tổ thật sự trang nghiêm, tôn
vinh Tổ tiên họ Nguyễn Công. Qua Đại Lễ này chúng ta thấy dòng họ lớn mạnh về mọi mặt.
Được sự phù hộ độ trì của Càn Khôn, 3 vị Thành
Hoàng: Thiên Thần Vọng Hào, Đại vương Linh Quy,
Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn và Tổ tiên họ Nguyễn Công cùng tình huyết thống sâu nặng của hậu duệ, Đại lễ chạp Tổ họ Nguyễn Công thành công rực rỡ.
Hơn 210 năm Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến đến Trà Phương lập nghiệp, nay hậu duệ phát triển vững mạnh, cư trú nhiều nơi trên Thế giới,
nhưng chủ yếu ở Trà Phương – Kiến Thuỵ, Vàng Xá – An Lão, đông nhất là ở Đồng Tử - Kiến An. Hơn 210 năm
qua, hậu duệ của Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến đã phát
triển mạnh mẽ được 11 đời,
xưa đã có hàng chục người tham gia vào chính
quyền cấp Tổng, xã, làng.
Nay có nhiều
là cán bộ từ
trung ương đến địa
phương, có 3 giáo sư, 4 tiến sĩ, 15 thạc sĩ, 115 cử nhân, kỹ sư, có 10 sĩ
quan cao cấp quân đội và công
an, nhiều nghệ nhân, thợ lành nghề góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Thuỷ tổ Nguyễn Công Tiến giữ chức sắc gì trong triều Quang Trung, từ đâu đến Trà Phương, vào
lúc Nguyễn Ánh lên ngôi (1802), thuỷ Tổ tỉ là ai? Nhiều vấn đề còn là huyền sử của họ Nguyễn Công, hậu duệ hãy cùng nhau làm rõ.
Loài người đang bước vào thiên niên kỷ thứ III, văn hoá Đông – Tây có nhiều khác biệt, nhưng không dân tộc nào lại không
quan tâm đến dòng họ, nên ở các nước văn minh thì dòng họ lại càng được quan tâm ,xây dựng trở thành những “Danh gia vọng tộc” có tầm quốc tế, chiếm những thị phần lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá toàn
cầu..
Nên hậu duệ Nguyễn
Công ta hàng năm vào ngày 13 tháng 3 âm lịch hãy tụ hội về Trà Phương, nơi
linh địa mà hơn 200 năm
qua Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến đã chọn làm quê mới, để sát cánh bên
nhau dâng hương trước Bàn Thờ Tổ, tưởng nhớ công đức Thượng Tổ Nguyễn Công Tiến và phu nhân .
Mong
Tổ tiên từ
cõi linh thiêng
Giúp hậu duệ ngày càng tiến
bộ
Tận hiếu,
trung vì nước, vì dân
Tròn
đạo nghĩa với
đời, với
họ
Hậu
duệ hội tụ về Trà Phương, xin Tổ
tiên họ Nguyễn Công phù hộ
cho đủ : Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng , Liêm.
Cùng được hưởng : Khang, Ninh, Phúc, Lộc, Thọ.
Cho
Xã hội văn minh, Quốc dân cường phú
DÒNG HỌ NGUYỄN CÔNG DANH THƠM MUÔN THUỞ!
Mong sự đóng góp của các bạn cho đầy đủ tư liệu nhằm xây dựng văn bản về họ Nguyễn Công được phong phú hơn!
Văn bản này đã đăng trên Khatraphuong. Blog, trang: "họ Nguyễn Công Trà Phương". Tài liệu xin gửi về hộp thư: Khatraphuong@Gmail.com.Trân trọng cám ơn!
Trà Phương, Mùa xuân năm Giáp Ngọ - Nguyễn Công Kha.