31 thg 1, 2009

MẸ VỀ VỚI TỔ TIÊNCÁT TÁNG – TỤC LỆ CỦA NGƯỜI VIỆT Ở PHÍA BẮC NÊN NHƯ THẾ NÀO?

























































































































































































MỘT SỐ ẢNH VIẾNG CỦA NGƯỜI THÂN, CƠ QUAN ... ĐÂU KHÔNG THẤY HỞ CON TRAI?





Từ nhỏ chăn trâu tôi đã biết tục cát táng của làng Trà Phương, nay biết thêm tục này ở phía Bắc Việt Nam.

Nên nghĩ như thế nào về tục này? Tục này có nên duy trì không? chúng ta cần nghiên cứu và có hội thảo để hướng dẫn cộng đồng trên cơ sở khoa học?

Xin trao đổi cùng bạn đọc chuyện cát táng mẹ tôi.

SANG CÁT NĂM KỶ SỬU

Mẹ tôi sinh năm M. Thìn (1928) quy tiên giờ Quý Dậu, ngày 7 tháng 2 năm Bính Tuất (2006).

Tháng 11 năm Kỷ Sửu (khoảng 44 tháng sau ngày hung táng) gia đình định giờ Bính Thân, ngày Bính, tháng Bính Tý cát táng cho Cụ.

Quan sát thấy mộ phần Cụ không lún, sụt, về Tử Vi của tôi năm Kỷ Sửu ngộ cung Hợi thể hiện: song Mã kéo quan tài ( Cự Môn) không đi, Tang Môn, Đường Phù gặp nước là phiến gỗ nổi tất hài cốt còn nguyên. Nhưng các con thấy Cụ lúc khuất đã gầy nên muốn cát táng. Do vậy tôi bàn với thân nhân sẽ có 2 phương án, phương án 2 chưa sạch sẽ lấp huyệt lại.

Đúng Ất Mùi giờ khởi sự, thợ đào đến gần ván thiên, thấy đất sét trắng, tôi đề nghị thợ nghỉ tay, đợi giờ B. Thân sẽ làm tiếp, họ nghỉ bàn gì với nhau? Tôi trao đổi với họ là: Cụ chưa sạch, họ hỏi ý ông thế nào, tôi đáp: lấp lại như cũ. Họ tiếp tục làm tôi thấy trên ván thiên đất vẫn trắng, họ mở nắp kính thi hài Cụ từ từ nổi lên như tấm gỗ, vải niệm từ màu trắng chuyển thành màu vàng nhạt, không thấy ám khí. Tôi yêu cầu nắp kính lại và lấp huyệt, đồng thời bá cáo với thân nhân mọi việc tạm xong, kính mời thân nhân về, việc cúng tế vẫn diễn ra như đã định. Bản số tôi sao đúng vậy: song Mã kéo cỗ quan tài lớn ( Cự Môn) không đi, Tang Môn, Đường Phù là phiến gỗ gặp cung Thủy nước thi hài như phiến gỗ nổi, tất hài cốt còn nguyên?

Về việc trên theo tôi: nơi hung táng toàn đất sét, đất kín, không lún sụt dẫn đến vi khuẩn không xuống được nên thi hài không bị phân huỷ.
Nhiều kẻ cho rằng phải cúng yểm bùa tôi cấm nghe theo kẻ xấu, vì cụ mất vào ngày Trùng tang ý phải có huynh đệ phải đi theo mới đủ yêu cầu của cõi Âm. Từ 2006 đến 2010 hai chị và em của cụ đều qua đời ứng với ngày mất của cụ phạm Trùng tang dẫn đến năm tân Mão việc sang cát mới xong.

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI CÁT TÁNG

Khi cát táng phải quan sát phần mộ nếu lún, lất, sụt là dấu hiệu cát táng đạt được. Nếu thi hài chưa sạch nên lấp huyệt lại, tạo đường khí thông đến quan tài, đơn giản là dùng đất khô, vón cục lấp lại huyệt để có khoảng trống dẫn khí xuống âm, không nên đập, làm nhẵn kín phần mộ, khi hung táng cũng làm như vậy thì không sợ 3 năm chưa sạch.

Khi cải táng gặp những điều sau đây thì không nên cải táng nữa :

- 1 : Khi đào mả thấy trong huyệt có con rắn vàng đang sinh sống cho là điềm cát tường (Long xà khí vật).

- 2 : Khi mở nắp quan tài thấy có dây tơ hồng quấn quít thì cho rằng đất kết.

- 3 : Khi hơi đất chỗ quan tài ấm áp, không có nước, khô ráo hoặc có nước đọng như màu sữa là tốt.

- 4 : Phần thịt của thi hài phân huỷ chưa hết.

Gặp những điều trên đây phải đắp mả lại ngay.
Cát táng không nên dùng người nghiệp dư, tránh người thân tự làm, vì khi các cụ chưa sạch, nếu cố tình sẽ mất vệ sinh ( dóc thịt lấy xương) người thân tâm lý không vững sẽ sinh nhiều chuyện, nhất là khi kẻ xấu lừa đảo, lung lạc thân chủ là: Trùng tang, thần khổ kháo... bày trò cúng làm tiền, gây đau đớn tính thần, thể xác không lường hết hậu quả của kẻ xấu gây cho gia đình thân chủ.


XEM NGÀY GIỜ
Ngày giờ hàng Can, Chi không được sát hàng Can Chi của người mất. Chọn ngày Định, Chấp, Thành, Khai, Trừ, Nguy – Thiên Xá, Thiên Ân, Thiên đức hợp, Nguyệt đức hợp, Lục Hợp. Nên cát táng vào chiều, sáng sớm tránh ánh sáng mặt Trời.
Tránh các sao: Kiến, Phá, Bình, Thu, Kiếp Sát,Tai Sát, Nguyệt Hình, Nguyệt Phá, Nguyệt Yếm, Nguyệt Hại,Tứ Phế, Tứ Kỵ, Ngũ mộ, Phục Nhật, Trùng Nhật, Trùng Tang, Trùng Phục.

Trước khi cải táng, gia đình tổ chức lễ cáo đường nơi thờ tự. Trước khi động thổ cải táng có lễ xin thổ thần. Chuẩn bị tiêủ sành, (quách gỗ nếu có), giấy trang kim, vải( lụa, gấm vóc), màu hợp với mệnh thân chủ để bọc cốt; nước Ngũ vị hương rửa cốt.
Nên đào mộ sớm vài giờ để khí độc thoát đi, khi nhặt xương phải rửa sạch bằng nước ngũ vị hương, xếp vào tiểu sành phải theo thứ tự, không để sót xương, chèn vào phần trống bằng vải ( luạ, gấm vóc) hoặc đất sét. Bên ngoài tiểu hoặc quách bọc nhựa trám, nếu không có nhựa trám thì dùng đất sét lèn chặt, độ sâu tính từ nắp thiên đến mặt bằng nơi huyệt tối thiểu là 40cm, không nên đặt tiểu vào nền huyệt là cát, nếu gặp cát nên đào sâu thêm 20 - 30 cm lót bằng đất sét dẫm kỹ để tạo nền thì cốt sẽ được bảo quản tự nhiên lâu hơn trên nền cát. Kết thúc cát táng có lễ tạ ơn. Lễ tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế của gia chủ nên có: xôi, thịt, rượu, trầu hoa, quả, gạo sống, muối vàng tiền.
Cát táng nơi đất sét thì tốt hơn đất xốp, mùn giun, cát.


CÁT TÁNG CHO MẸ TÔI NĂM TÂN MÃO

Tháng Kỷ Hợi, năm Tân Mão, quan sát phần mộ Cụ đã lún, lất, sụt tôi cho là dấu hiệu cát táng đạt được.
Tôi tự xem giờ: từ giờ B. Dần đến giờ Đ. Mão, ngày Kỷ Mão, tháng Kỷ Hợi, được:
- Các sao tốt: ĐỊNH, Thiên Ân, Nguyệt đức hợp, Âm đức, Mãn đức tinh, Thiên giải, Dân nhật, Tam Hợp
– Các sao xấu: Thiên hoả, Đại hao, nhân cách, Huyền vũ, Kim thần sát,
Có sao Thiên ân sẽ giải được nhiều sao xấu.
Gia đình đã chuẩn bị cho Cụ quách gỗ Vàng Tâm và đồ cát táng.










Mọi việc diễn ra như đã định, con, cháu, thân nhân mừng vô cùng, tạ ơn bề trên, đã phù hộ cho gia đình mọi sự hanh thông.

27 thg 1, 2009

tra phuong


Cháu Nguyễn Công Minh đời thứ 10, sinh tháng 5 / B. Tuất, con Nguyễn Công Quân & Nguyễn Thị Thủy