“Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam,
còn gọi là Vùng đồng bằng Nam Bộ hoặc miền Tây Nam Bộ hoặc theo
cách gọi của người dân miền Nam Việt Nam ngắn gọn là Miền Tây, có
12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung ương.
|
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm
2011, tổng diện tích các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long là 40.548,2 km² và
tổng dân số của các tỉnh trong vùng là 17.330.900 người.[1]
Địa lý tự nhiên
Mùa nước nổi ở Tứ giác Long
Xuyên
Các điểm cực của đồng bằng trên đất liền, điểm cực
Tây 10626´(xã Mĩ Đức, Thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên
Giang), cực Đông ở 106°48´(xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền
Giang), cực Bắc ở 11°1´B (xã Lộc Giang, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An) cực Nam ở
85°33´B (huyện Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau). Ngoài ra còn có các đảo
tiền tiêu của Việt Nam
như quần đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, đảo Hòn Khoai.
Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ
sông Mê Kông có diện tích 39.734 km². Có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ,
phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển
Đông.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam được hình
thành từ những trầm tích phù sa và bồi
dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự
hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những
hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu
dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm
tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông
Hậu và bán đảo Cà Mau.
Cách đây khoảng 8.000 năm, vùng ven biển cũ trải rộng
dọc theo triền phù sa cổ thuộc trầm tích Pleistocen
từ Hà
Tiên đến thềm bình nguyên Đông Nam Bộ. Sự hạ thấp của mực nước biển một cách đồng
thời với việc lộ ra từng phần vùng đồng bằng vào giai đoạn cuối của thời kỳ trầm
tích Pleistocen. Một mẫu than ở tầng mặt đất này được xác định bằng C14
cho thấy nó có tuổi tuyệt đối là 8.000 năm (Ngộ, 1988). Sau thời kỳ băng hà cuối
cùng, mực mước biển dâng cao tương đối nhanh chóng vào khoảng 3–4 m trong suốt
giai đoạn khoảng 1.000 năm (Blackwelder và những người khác, 1979), gây ra sự lắng
tụ của các vật liệu trầm tích biển ở những chỗ trũng thấp của châu thổ; tại đây
những sinh vật biển như hàu (Ostrea) được tìm thấy và việc xác định tuổi tuyệt đối
của chúng bằng C14 cho thấy trầm tích này được hình thành cách đây
khoảng 5.680 năm (Ngộ, 1988).
Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và nước lợ,
thực vật rừng ngập mặn dày đặc đã bao phủ toàn vùng này, chủ yếu là những cây
đước (Rhizophora sp.) và mắm (Avicennia sp.). Những thực vật chịu
mặn này đã tạo thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ, làm giảm sự xói
mòn do nước hoặc gió, và cung cấp sinh khối cho trầm tích châu thổ (Morisawa
M., 1985), và rồi những đầm lầy biển được hình thành. Tại vùng này, cách đây
5.500 năm trước công nguyên, trầm tích lắng tụ theo chiều dọc dưới điều kiện mực
nước biển dâng cao đã hình thành những cánh đồng rộng lớn mang vật liệu sét. Sự
lắng tụ kéo dài của các vật liệu trầm tích bên dưới những cánh rừng Đước dày đặc
đã tích lũy dần để hình thành một địa tầng chứa nhiều vật liệu sinh phèn (pyrit).
Mực nước biển dâng cao, bao phủ cả vùng như thế hầu
như hơi không ổn định và bắt đầu có sự giảm xuống cách đây vào khoảng 5.000 năm
(Pons L. J. và những người khác, 1982). Sự hạ thấp mực nước biển dẫn đến việc
hình thành một mực nước biển mới, sau mỗi giai đoạn như thế thì có một bờ biển
mới được hình thành, và cuối cùng hình thành nên những vạt cồn cát chạy song
song với bờ biển hiện tại mà người ta thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một
cồn cát chia cắt vùng Đồng Tháp Mười và vùng trầm tích phù sa được xác định bằng
C14 cho thấy có tuổi tuyệt đối vào khoảng 4.500 năm (Ngộ, 1988).
Sự hạ dần của mực nước kèm theo những thay đổi về
môi trường trong vùng đầm lầy biển, mà ở đây những thực vật chịu mặn mọc dầy đặc
(Rhizophora sp., Avicinnia sp.) được thay thế bởi những loài thực
vật khác của môi trường nước ngọt như tràm (Melaleuca sp.) và những loài
thực thực vật hoang dại khác (Fimbristylis sp.,Cyperus sp.). Sự ổn
định của mực nước biển dẫn đến một sự bồi lắng trầm tích ven biển khá nhanh với
vật liệu sinh phèn thấp hơn (Pons L. J. và những người khác, 1989).
Ghe chở chôm
chôm trên sông cửu long
Sự tham gia của sông Cửu Long đóng vai trò rất quan
trọng trong suốt quá trình hình thành vùng châu thổ. Lượng nước trung bình hàng
năm của sông này cung cấp vào khoảng 4.000 tỷ m³ nước và vào khoảng 100 triệu tấn
vật liệu phù sa (Morgan F. R., 1961), những mảnh vỡ bị bào mòn từ lưu vực sông,
mặc dù một phần có thể dừng lại tạm thời dọc theo hướng chảy, cuối cùng được
mang đến cửa sông và được lắng tụ như một châu thổ (Morisawa, 1985). Những vật
liệu sông được lắng tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự nhiên có chiều
cao 3–4 m, và một phần của những vật liệu phù sa phủ lên trên những trầm tích
pyrit thời kỳ Holocen
với sự biến thiên khá rộng về độ dầy tầng đất vùng và không gian vùng (Pons L.
J. và csv., 1982). Các con sông nằm được chia cắt với trầm tích đê phù sa nhưng
những vùng rộng lớn mang vật liệu trầm tích biển chứa phèn tiềm tàng vẫn còn lộ
ra trong vùng đầm lầy biển (Moormann, 1961). Tuy nhiên, độ chua tiềm tàng không
xuất hiện trong vùng phụ cận của những nhánh sông gần cửa sông mà tại đây ảnh
hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại, vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong,
được biểu thị bởi một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù
du trong nước sông khá thấp và châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy
triều và do bởi những vành đai thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở
vùng châu thổ sông Mekong, và kết quả là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm tàng
(Moormann và Pons, 1974).
Các tỉnh và thành phố
Tỉnh
|
Tỉnh lỵ
|
Thành phố
|
Quận
|
Thị xã
|
Huyện
|
Dân số
|
Diện tích
|
Mật độ dân số
|
BS xe
|
Mã ĐT
|
Thành phố Long
Xuyên
|
1
|
2
|
8
|
2.149.200
|
3.536,8 km²
|
608 người/km²
|
67
|
76
|
||
Thành phố Bạc Liêu
|
1
|
6
|
858.400
|
2.501,5 km²
|
343 người/km²
|
94
|
781
|
|||
Thành phố Bến Tre
|
1
|
8
|
1.255.800
|
2.360,2 km²
|
532 người/km²
|
71
|
75
|
|||
Thành phố Cà Mau
|
1
|
8
|
1.207.000
|
5.331,6 km²
|
226 người/km²
|
69
|
780
|
|||
Thành phố Cần Thơ
|
5
|
4
|
1.189.600
|
1.401,6 km²
|
849 người/km²
|
65
|
710
|
|||
Thành phố Cao Lãnh
|
1
|
2
|
9
|
1.667.700
|
3.375,4 km²
|
494 người/km²
|
66
|
67
|
||
Thành phố Vị
Thanh
|
1
|
1
|
5
|
758.000
|
1.601,1 km²
|
473 người/km²
|
95
|
711
|
||
Thành phố Rạch
Giá
|
1
|
1
|
13
|
1.687.900
|
6.346,3 km²
|
266 người/km²
|
68
|
77
|
||
Thành phố Tân An
|
1
|
13
|
1.438.500
|
4.493,8 km²
|
320 người/km²
|
62
|
72
|
|||
Thành phố Sóc Trăng
|
1
|
1
|
9
|
1.293.200
|
3.311,8 km²
|
390 người/km²
|
83
|
79
|
||
Thành phố Mỹ Tho
|
1
|
1
|
8
|
1.673.900
|
2.484,2 km²
|
674 người/km²
|
63
|
73
|
||
Thành phố Trà Vinh
|
1
|
7
|
1.004.400
|
2.295,1 km²
|
438 người/km²
|
84
|
74
|
|||
Thành phố Vĩnh Long
|
1
|
7
|
1.029.800
|
1.479,1 km²
|
696 người/km²
|
64
|
70
|
Tài nguyên
Khu vực có các triển vọng về dầu khí trong thềm lục
địa như bể trầm tích Nam Côn Sơn khoảng 3 tỉ tấn dầu
quy đổi,[cần dẫn nguồn] Thổ
Chu – Mã Lai. Ngoài ra đồng bằng còn có các khoáng sản vật liệu xây dựng như
sét gạch ngói, cát sỏi.... Các khoáng sản khác không giàu.
Khí hậu
Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo vùng nên thuận lợi
phát triển ngành nông nghiệp ( mưa nhiều , nắng nóng ) đặc biệt là phát triển
trồng lúa nước và cây lương thực .
Nông nghiệp
Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản
chưa tới 30% của cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện
tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy
sản của cả nước.[4]
Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền
Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Bình
quân lương thực đầu người gấp 2.3 lần so với lương thực trung bình cả nước. Nhờ
vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước.
Ngoài ra cây ăn quả còn đặc sản nổi tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng,
cũng như chất lượng ngày càng được nâng cao Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh.
Nuôi nhiều ở Đồng Tháp, Hậu
Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc
Trăng Sản lượng thủy sản chiếm 50 % nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang, An Giang . Đặc
biệt là Kiên Giang là tỉnh có sản lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất 239219 tấn
thủy sản ( năm 2000 ) , An Giang là tỉnh nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng
80000 tấn thủy sản ( năm 2000 ). Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản đang
phát triển mạnh, theo quy mô công nghiệp Tài nguyên rừng cũng giữ những vai trò
quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển, trong đó hệ thống rừng
ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, bên cạnh
đó là những cánh rừng tràm ở U Minh Cà Mau, Đồng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng
Công nghiệp
Phát triển rất thấp . Chế biến lượng thực chiếm nhiều
nhất của cả vùng . Cần Thơ là trung tâm của cà vùng bao gồm các ngành : nhiệt điện , chế biến lương thực , luyện kim đen, cơ khí
, hóa chất , dệt may và vật liệu xây dựng .Thành
phố Cần Thơ còn có sân bay góp phần giao lưu hàng hóa , khách du lịch trong và
ngoài nước
Vùng Kinh tế trọng điểm
ĐBSCL
-Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009
của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt đề án thành lập Vùng kinh tế trọng
điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. -Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông
Cửu Long là tên gọi khu vực phát triển kinh tế động lực ở miền Tây Nam Bộ Việt
Nam, gồm các tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Đề án
thành lập vùng kinh tế trọng điểm này đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt
ngày 16 tháng 4 năm 2009. -Theo đề án, đến năm 2020, vùng kinh tế trọng điểm
này sẽ là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến
thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông thủy sản của cả nước. Ngoài ra, vùng
kinh tế này còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học,
cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Dịch vụ
Khu vực dịch vụ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long
bao gồm các ngành chủ yếu : xuất nhập khẩu , vận tải thủy , du lịch . Xuất
khẩu gạo chiếm 80% của cả nước , đồ đông lạnh và hoa quả . Giao thông đường thủy
giữ vai trò quan trọng nhất
Du lịch sinh thái bắt đầu khởi sắc như du lịch trên
sông nước , vườn , khám phá các cù lao. Du lịch bền vững bước đầu hình thành với
sự thành công của khu nghỉ dưỡng bền vững Mekong Lodge tại Tiền
Giang và nhiều địa phương khác như Bến Tre,Vĩnh Long.
Tuy nhiên chất lượng và sức cạnh tranh của các khu du lịch không đồng đều và
còn nhiều hạn chế. Đồng bằng sông Cửu Long đang được đầu tư để nâng cao chất lượng
tốt hơn và hiệu quả kinh tế trong khu vực.” - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
“Nhưng theo Viện qui hoạch Thủy lợi miền Nam, thủy lợi
tại vùng giữa sông Tiền và sông Hậu hiện còn nhiều bất cập như tiến độ thực hiện
xây dựng c ác kênh trục nối sông Tiền và sông Hậu quá chậm , h ệ thống cống – đập
Ba Lai chưa đồng bộ nên phát huy hiệu quả thấp , h ệ thống thủy lợi nội đồng
trong vùng vẫn chưa phát triển . Theo qui hoạch trước đây, vùng giữa sông Tiền
và sông Hậu chỉ sản xuất 2 vụ lúa (đông xuân, hè thu) nên hệ thống bờ bao, đê
bao chỉ nhằm bảo vệ lúa hè thu khi gặp lũ sớm (tháng Tám). Trong những năm qua,
diện tích đất được đắp đê bao kiểm soát lũ cả năm để sản xuất 3 vụ lúa (thêm vụ
thu đông) tăng nhanh, nhiều nhất ở 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp đã gây tác động
không tích cực của dòng chảy lũ, nước ngầm và môi trường. Riêng tại tiểu vùng Bắc
Vĩnh An (An Giang) hiện qui hoạch chưa rõ, nhất là tại khu vực huyện An Phú .
Khu vực Chợ Mới tuy đã được kiểm soát lũ cả năm song hệ thống công trình chưa đồng
bộ, khép kín nên chưa chủ động trong việc kiểm soát lũ. Việc cấp nước cho phần
lớn diện tích tại tiểu vùng chưa chủ động, người dân phải tự thực hiện bằng các
loại máy bơm dầu nhỏ. Hàng năm, phía Tây kênh Bảy Xã thường xuyên bị lũ tràn,
gây sạt lở bờ và bồi lắng nghiêm trọng hệ thống lòng sông và kênh các cấp, người
dân phải bỏ ra hàng tỷ đồng để nạo vét, duy tu kênh, bờ kênh. Mật độ kênh cấp
II trong tiểu vùng nhìn chung còn thấp, chưa đủ năng lực cấp, tiêu nước. Đường
bộ nông thôn chưa bảo đảm yêu cầu đi lại trong mùa mưa lũ.” – Báo mới .com
Liệu các tinh hoa của Ta có định biến
nơi đây như tiền nhân đã khai thác ép đồng bằng Bắc bộ, để nghìn năm đến hôm
nay “ có hệ thống đê điều hoành tráng “ tiêu tốn bao nhiêu công lực để chống lại
tự nhiên, mà hậu quả như lịch sử đã ghi những trận lụt kinh hoàng.
Các tinh hoa của Ta chớ duy ý trí mà hướng
Dân lại khai thác ép châu thổ sông Cửu Long sẽ để lại hậu quả khôn lường cho
dân Ta.
Hãy về châu thổ sông Cửu Long để thấy sự
phá vỡ cơ cấu tự nhiên so với nó cách đây 30 năm, chớ vì thành tích tăng trưởng,
lợi trước mắt mà để hậu quả khôn lường, đừng nóng với thiên nhiên, hỡi các tinh
hoa, đã mua bằng để hóa Tinh hoa với cái đầu nóng chống lại thiên nhiên?
Thoại Sơn - qua ngày tận thế,
tháng 12/2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét